Không
Ai Bịt Miệng Được Nhà Văn Dương Thu Hưong
11/07/2005 -
Vietnam Review (http://www.vietnamreview.com/index.php)
Tác giả: Alan Riding, New York Times, July 11, 2005
Người dịch: Nguyễn Quốc Khải, Vietnam Review
Paris, 09.07- Khoác bên ngoài một chiếc áo vét tông xần xùi
và nhấm nháp nước trái cây trong một quán cà phê ở bên bờ sông [Seine], nhà
văn Dương Thu Hương không có vẻ ǵ là một khuôn mặt dọa nạt được ai. Nhưng
bà Hương, 58 tuổi, hiển nhiên là như vậy tại quê hương Việt-Nam của bà, nơi
bà đă bị giam cầm, sách của bà bị cấm và bà bị từ chối không cho giấy thông
hành để xuất ngoại trong 11 năm.
Có vẻ là bà có nhiều tội. Những cuốn tiểu thuyết của bà mổ xẻ đời sống dưới
một trong những chế độ cộng sản cuối cùng được xuất bản và đón nhận niềm nở
tại thế giới Tây phương. Bà là một cựu đảng viên Cộng Sản bị trục ra khỏi
đảng v́ tội phản bội. Và trên hết, bà là một nhân vật chống đối – một lănh
tụ cao cấp của đảng gọi bà là một “con điếm chống đối” (dissident whore) –
đă không chịu ngậm miệng ngay cả sau khi đă bị nhốt trong tù tám tháng vào
năm 1991.
Ngày nay, lần thứ hai, bà được phép qua Âu châu. Nhưng trong
một nghĩa, nước Việt-Nam cùng đi theo với bà. Bà vui ḷng nói về đời của
ḿnh và năm cuốn tiểu thuyết, gồm cả cuốn mới nhất, “No Man’s Land” (Chốn
Vắng), xuất bản tại Hoa-Kỳ vào tháng Tư vừa qua. Nhưng ưu tiên của bà là
công khai kết án chính phủ tham nhũng và lạm quyền Hà-Nội.
Bà nói lưu loát tiếng Pháp nhưng với một cách phát âm nặng: “Đây là nhiệm vụ
phải làm của tôi nhân danh những người đă chết dưới chế độ đáng hổ thẹn này.
V́ tôi có một chút tiếng tăm ở nước ngoài, tôi phải nói về những vấn đề này.
Tôi phải nói ra những ǵ trong con người của tôi để lương tâm của tôi được
trong sáng. Dân chúng đă mất sức mạnh để phản ứng, để suy tư, để nghĩ. Có lẽ
tôi sẽ cho họ can đảm.”
Bà cảm thấy rằng lời nhắn nhủ của bà khẩn trương hơn bao giờ hết. Ba mươi
năm sau chiến tranh Việt-Nam, bà thấy chế độ được chấp nhận ở nước ngoài
bằng cách mở rộng kinh tế cho người ngoại quốc trong một chiến lược hỗn hợp
cộng sản tư bản. Bà cũng nhận thấy với sự lo sợ rằng thủ tướng của Việt-Nam,
Phan Văn Khải, đă được tiếp đón tại toà Bạch Cung vào tháng trước.
“Đây là một chề độ tàn bạo và đê tiện. Nó làm nhiều thứ để lừa phỉnh những
người ngoại quốc,” bà nói trong một buổi mạn đàm lâu dài. “Nếu Bush ủng hộ
chế độ này, nó sẽ bắt đầu dấn thân vào một cuộc chiến khác, và sẽ đưa dân
chúng xuống đất đen. Lần này những kẻ phản bội địa phương, thay v́ phi cơ
thả bom B-52, sẽ được sử dụng.”
Cho đến nay, bà tiếp tục nói, chiến tranh Việt-Nam được sử dụng để biện minh
cho việc duy tŕ quyền lực trong tay của nhà nước.
“Tất cả tuyên truyền của nhà nước chỉ nhắm tạo một huyền
thoại về chiến tranh, để tâng bốc và đe dọa dân chúng,” bà nói. “Dân được
bảo rằng: ‘Dân tộc ta anh hùng. Chúng ta nên kiêu hănh về lịch sử của chúng
ta. Nhưng đừng bao giờ quên rằng, đảng đă lănh đạo dân tộc đến thành công.’
Nhà nước lừa dối dân chúng bằng một niềm kiêu hănh mù quáng.”
Cuộc đời của bà Hương cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của chiến tranh.
Bà nói, khi c̣n một đứa trẻ con bà không được học trường tốt v́ bà không
thuộc vài giai cấp nông dân hoặc vô sản: Bà ngoại của bà là địa chủ đă di cư
vào Nam vào giữa thập niên 1950. [1] Nhưng đến tuổi 16, Dương Thu Hương được
cho phép gia nhập đoàn diễn kịch lưu động và chứng tỏ có tài, nên được gửi
đi học trường đào tạo diễn viên, nghệ sĩ múa, và ca sĩ để giúp vui quần
chúng.
Ở đó bà một lần nữa làm việc khá và được cấp cho cơ hội để đi học tại Liên
Xô, Đông Đức hoặc Bulgaria. Bà nói: “Tôi chọn ra tiền tuyến bởi v́ nước
chúng tôi đang có chiến tranh và tổ tiên tôi luôn luôn chiến đấu cho đất
nước…Tôi gia nhập một đoàn nghệ sĩ trẻ lo tŕnh diễn cho bộ đội và nạn nhân
chiến tranh. Khẩu hiệu là: ‘Những tiếng hát của chúng ta to hơn tiếng bom.’
Chúng ta có thể làm in những tiếng gào thét bằng những bài hát.”
Bà nhớ lại, bà nhận thấy ngay lúc đó những đảng viên có những đặc quyền. Sau
đó bà có một xúc động khác mạnh hơn khi tù binh của miền Nam đến khu vực của
bà. Bà nói: “Tôi khám phá ra sự thật là chúng tôi cũng chiến đấu chống lại
người Việt-Nam…Vâng, chúng tôi luôn luôn bị Mỹ dội bom, nhưng họ ở trên trời
cao và tôi không bao giờ được thấy họ. Tôi chỉ thấy người Việt.”
Bà giữ những ư nghĩ đó cho riêng ḿnh, và cũng làm như vậy sau chiến tranh
khi bà gặp lại bà con ở thành phố Hồ Chí Minh (như Saigon đă được đổi tên)
và bà nhận biết rằng kẻ bại trận khá hơn kẻ thắng trận. Trong khoảng thời
gian đó, bà tổ chức những sinh hoạt nghệ thuật ở thành phố Huế. Khi 30 tuổi,
bà trở về Hà-Nội để làm việc cho kỹ nghệ điện ảnh của chính phủ. “Bà nói
“Tôi viết năm kịch bản. Chúng được làm thành những phịm dở… Nhưng lương tôi
không đủ sống.”
Một việc làm bất chợt ngắn hạn mở ra một cơ hội mới. Làm việc cho một nhóm
tướng lănh quân đội, bà viết cho họ về lịch sử chiến tranh Việt-Nam. “Những
ông tướng này thảo luận với nhau làm thế nào để thay đổi bài viết của tôi để
cho phù hợp với quyền lợi của họ… Các ông này muốn tăng số người Việt chết
để chứng tỏ rằng không có sự hi sinh nào quá to lớn cho nhân dân.”
Bà Hương nói rằng bà được mời gia nhập đảng CSVN vào năm 1979 và miễn cưỡng
chấp nhận với sự thúc đẩy của bạn bè v́ họ hi vọng bà có thể giúp họ. Cũng
trong năm đó cuốn tiểu thuyết đầu tiên của bà “Bên Kia Bờ ảo Vọng” được xuất
bản tại Việt-Nam bán được 100,000 bản. Nhưng hai năm sau, bà nói, với sự ra
đời của “Thiên Đường Mù”, một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng khác, bà bắt đầu
gặp nhiều vấn đề.
“Ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư của Đảng CSVN hứa cấp cho bà một căn nhà
dành cho cấp bộ trưởng nếu tôi giữ yên lặng,” bà nói. “Tôi nói với ông, ‘tôi
tranh đấu cho dân chủ, tôi đặt tôi về phía nhân dân và không bao giờ đồng ư
như là một bộ trưởng.’ Nguyên tắc của tôi là ông có thể mất tất cả, kể cả
mạng sống của ông, nhưng không bao giờ nên để mất danh dự của ḿnh.”
Ngay sau đó, bà nói, bà đă thoát hai âm mưu ám sát. Bà viết một bài diễn văn
cho Nghị Hội Những Nhà Văn Việt-Nam vào năm 1989, tựa đề là “Đảng Nên Cám Ơn
Nhân Dân” và tức th́ bị trục xuất ngay ra khỏi đảng. Vào năm 1991, bà bị tù
v́ bán tài liệu mật cho ngoại bang. Đó là những bản thảo viết tay. Không có
ǵ đáng ngạc nhiên cả, ba cuốn sách tiếp theo của bà – “Tiểu thuyết vô đề”,
“Memories of a Pure Spring” và “No Man’s Land” – chưa được xuất bản tại
Việt-Nam. [2]
Nhưng tất cả những tiểu thuyết của bà đă được dịch sang một số ngoại ngữ.
Nhờ Will Schwalbe, lúc đó làm việc tại Willam Morrow và bây giờ là chủ bút
tại Hyperion, những cuốn sách này được dịch sang Anh ngữ. Ô. Schwalbe nói
trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại “Lần đầu tiên tôi dược nghe về bà là
khi bà bị giam trong nhà tù…Tôi đọc 30 hay 40 trang của ‘Thiên Đường Mù’ và
tôi đă xúc động. Đây là cuốn tiểu thuyết Việt-Nam đầu tiên được dịch và xuất
bản tại Hoa-Kỳ.
Những tiểu thuyết của bà Hương không có mầu sắc chính trị rơ rệt, nhưng chủ
đề của những cuốn sách này là sự vỡ mộng của những người bị kẹt bởi số mệnh
ngoài sự kiểm soát của họ. Khi điểm sách cuốn “Memories of a Pure Spring”
trên tờ New York Times vào năm 2000, Richard Bernstein viết: “Người ta đọc
cuốn sách này v́ quan điểm chính trị của nó, nhưng hơn thế nữa là v́ chiều
sâu và sự phức tạp của những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết. Họ phấn đấu để
định nghĩa chính ḿnh trong một thế giới mà mỗi sự vật và mỗi người đều bị
xếp vào một trong những hệ tư tưởng và khát vọng đất nước.”
Vào năm 1994, với sự can thiệp của Đệ Nhất Phu Nhân của Pháp Danielle
Mitterand, bà Hương đă được đến Pháp để nhận giải thưởng. Bà được hứa cấp
cho quy chế tị nạn chính trị. “Tôi nói, ‘Cám ơn, nhưng tại nước tôi, sư sợ
hăi đă nghiền nát mọi thứ, chiến sĩ can đảm trở thành dân chính hèn nhát.’ “
Bà nhớ lại. “Do đó tôi phải trở về. Tôi trở về để làm một việc: nhổ vào mặt
chế độ.’ “
Lần này, Ṭa Đại Sứ Ư tại Việt-Nam đă lấy được hộ chiếu cho bà, nhưng sau
vài tuần ở Ư và Pháp, một lần nữa bà muốn trở về Hà-Nội, nơi hai đứa con và
bốn đứa cháu đang sống. (Bà Hương đă ly dị vào năm 1982.) Và một khi về
nước, nếu chính phủ không có một kế hoạch nào khác, bà nói bà sẽ tiếp tục
viết. “Tôi là một người có lư tưởng cao, “Bà nói, trước khi thêm một nụ cười
tinh quái, “và cũng là một người đần độn “
Chú thích:
[1] Theo GS Nguyễn Ngọc Bích, nhà văn Dương Thu Hương có bà
ngoại là địa chủ. Do đó chúng tôi dịch từ chữ “grandmother” ra là bà ngoại.
[2]: GS Nguyễn Ngọc Bích cho biết tên Việt của cuốn “No Man’s
Land” là “Chốn Vắng.” Nhưng tên Việt của cuốn “Memories of a Pure Spring,”
chưa biết. Các nhà sách ở Hoa-Kỳ đều không có cả hai cuốn này bằng tiếng
Việt.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Richard Harbus for The New York Times
Vietnamese Writer Won't Be Silenced
By
ALAN RIDING
New York Times
July 11, 2005
For 11 years, Duong Thu Huong was not allowed to travel abroad.
PARIS, July 9 - Wearing an elegant tweed jacket and sipping fruit juice in a
Left Bank cafe here, the writer Duong Thu Huong hardly cuts a threatening
figure. But Ms. Huong, 58, evidently does in her native Vietnam, where she
has spent time in jail, has seen her books banned and for 11 years was
denied a passport to travel abroad.
Her sins, it seems, are many. Her novels dissecting life under one of the
last Communist regimes are published and well received in the West. She is a
former Communist Party member who was expelled as a traitor. And above all,
she is a dissident - a "dissident whore," one party leader said - who
refused to be silenced even after spending eight months in prison in 1991.
Now, for the second time, she has been allowed to travel to Europe. But in a
sense, Vietnam has traveled here with her. She is willing to talk about her
life and to discuss her five novels, including her latest, "No Man's Land,"
published in the United States in April. But her priority is to denounce the
Hanoi government as irremediably corrupt and abusive.
"It is my mission to do so on behalf of those who have died under this
shameful regime," she said, speaking fluent but heavily accented French.
"Because I have a small reputation abroad, I have to say these things. I
have to empty what is inside me to feel my conscience is clear. The people
have lost the power to react, to reflect, to think. Perhaps I will give
people courage."
She feels her message is more urgent than ever. Thirty years after the
Vietnam War, she sees the regime gaining acceptance abroad by opening up its
economy to foreigners under a communism-with-capitalism strategy. She also
noted with alarm that Vietnam's prime minister, Phan Van Khai, was received
by President Bush at the White House last month.
"It is a brutal and ignoble regime that does lots of things to fool
foreigners," she said during a long conversation. "If Bush supports this
regime, it will be engaging in another war that will drive the people into
the mud. This time, instead of using B-52 bombers, it will be using the
hands of native turncoats."
Until now, she went on, the Vietnam War served to justify the government's
grip on power.
"All its propaganda is designed to feed the myth of the war, to flatter and
threaten the people," she said. "It tells them: 'You are a heroic people.
You should be proud of your history. But never forget that it was the party
that led the people to victory.' It deceives the people with blind pride."
Ms. Huong's life, too, was inevitably shaped by the war.
As
a child, she said, she was refused a good education because she belonged to
neither the peasantry nor the proletariat class: her grandmother was a
landowner who in the mid-1950's moved to South Vietnam. But, at 16, Duong
Thu Huong (pronounced zung tu hung) was allowed to join a nomadic theater
troupe and, showing talent, was then sent to a college training actors,
dancers and singers for popular entertainment.
There she again did well and in 1968 was offered the chance to study in the
Soviet Union, East Germany or Bulgaria. "But I chose to go to the front
because our country was at war and my ancestors have always fought for our
country," she said. "I joined a group of young artists performing for the
troops and victims of the war. The slogan was: 'Our songs are louder than
the bombing.' We would silence the screams with songs."
But even then, she recalled, she noticed that party members enjoyed special
privileges. A bigger shock followed when South Vietnamese prisoners arrived
in her zone. "I discovered the truth that we were also fighting Vietnamese,"
she said. "Yes, we were being bombed all the time by the Americans, but they
were high in the sky and I never saw them. I only saw Vietnamese."
She kept her thoughts to herself, as she did after the war when she met up
with relatives in Ho Chi Minh City (as Saigon was renamed) and realized that
the defeated were better off than the victors. By then, she was organizing
artistic events in the city of Hue. When she was 30, she returned to Hanoi
to work in the government's movie industry. "I wrote five screenplays which
were made into bad films," she said, "but I couldn't live off my salary."
One freelance job proved to be another eye-opener. Working for a group of
army generals, she ghost wrote a history of the Vietnam War. "The generals
would discuss among themselves how to correct my text to suit their
interests," she said. "They wanted to increase the number of Vietnamese who
died to show that no sacrifice was too great for the people."
Ms. Huong said she was invited to join the Communist Party in 1979 and did
so reluctantly in 1985 at the urging of friends who hoped she could help
them. That was also the year that her first novel, "Beyond Illusions," was
published in Vietnam to popular acclaim, selling 100,000 copies. But two
years later, she said, with the publication of "Paradise of the Blind,"
another best seller, her problems began.
"The party's general secretary, Nguyen Van Linh, offered me a house of the
kind reserved for ministers if I would remain silent," she said. "I told
him, 'I fight for democracy, I place myself on the side of the people and
would never agree to be like a minister.' My principle is that you can lose
everything, even your life, but never your honor."
Soon afterward, she said, she evaded two assassination plots. She wrote a
speech for the 1989 Congress of Vietnamese Writers called "The Party Should
Thank the People" and was duly drummed out of the party. In 1991 she was
jailed for selling secret documents to foreigners, the "secrets" being her
manuscripts. Unsurprisingly, her next three books - "Novel Without a Name,"
"Memories of a Pure Spring" and "No Man's Land" - have not been published in
Vietnam.
But all her novels have been published in several foreign languages. And
thanks to Will Schwalbe, then at William Morrow and now editor in chief at
Hyperion, they have also appeared in English. "I first heard about her when
she was in prison," Mr. Schwalbe said in a telephone interview from New
York. "I read 30 or 40 pages of 'Paradise of the Blind' and was blown away.
It was the first Vietnamese novel ever published in the United States in
translation."
Ms. Huong's novels are not openly political, but their leitmotif is the
disillusionment of people trapped by a fate beyond their control. Reviewing
"Memories of a Pure Spring" in The New York Times in 2000, Richard Bernstein
wrote: "One reads it certainly for its politics, but even more for the depth
and complexity of its characters who strive to define themselves in a world
that still puts everything and everybody in one or another category of
ideology and national aspiration."
In
1994, through the intervention of Danielle Mitterrand, France's first lady
at that time, Ms. Huong was allowed to come to France to receive an award.
She was offered political asylum. "I said, 'Thank you, but in my country
fear crushes everything, brave soldiers have become cowardly civilians’, "
she recalled. " 'That's why I have to return. I return to do one thing: to
spit in the face of the regime.' "
This time, the Italian Embassy in Vietnam obtained her passport, but after a
few weeks in Italy and France, she again intends to return to Hanoi, where
her two children and four grandchildren live. (Ms. Huong was divorced in
1982.) And once there, if the government has no other plans, she says she
will continue writing. "I am an idealist," she said, before adding with a
mischievous smile, "and an imbecile, too."
***********************************************************************